so sánh nền văn minh phương đông và phương tây

Bài viết sẽ phân tích hai "căn nguyên cơ bản" nhìn từ góc độ của kinh tế học và hệ tư tưởng. "Văn hóa nông nghiệp" phương Đông và "văn hóa công nghiệp" phương Tây: một góc nhìn từ kinh tế học. Một trong những khác biệt căn bản giữa văn hóa phương Đông và phương Tây theo góc nhìn của kinh tế học là "sự đúng giờ". Không thể so sánh văn hóa phương Đông và phương Tây . Trong văn hóa phương Đông, chúng tôi sống trong quần thể gia đình lớn và người phụ nữ thường phải theo lề thói chồng và nhà chồng. Đây là điều đương nhiên, không chỉ tồn tại ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Á châu. 4,110. So sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây. Các quốc gia cổ đại phương đông và các quốc gia cổ đại phương tây là các quốc gia ra đời sớm nhất trên thế giới. Nó đã mở ra thời đại văn minh cho con người, thời đại xã hội có giai cấp và nhà nước Vay Tiền Nhanh Home. Review sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương - một cái nhìn sâu sắc về văn hóa Đông Tây Thời kỳ hội nhập mang đến đất nước chúng ta những cơ hội mới, những luồng văn hóa mới nhưng cũng đi kèm cái giá là sự biến chất, mai một của nhiều giá trị văn hóa truyền thống quý báu. Thói sính ngoại đã lan đến cả những vùng thôn quê và có những thay đổi đáng kể lên tư duy người Việt, lên cách chúng ta quan sát, cảm nhận và giữ gìn văn hóa phương Đông. Cùng đọc cuốn Văn minh Đông Phương và Tây Phương của tác giả Nguyễn Duy Cần để có cái nhìn sâu sắc, khúc chiết hơn về sự khác biệt giữa hai nền văn hóa này. Tác giả cuốn Văn minh Đông Phương và Tây PhươngNội dung cuốn Văn minh Đông Phương và Tây PhươngNgười phương Đông Người phương TâyTrích dẫn hay từ cuốn Văn minh Đông Phương và Tây PhươngNhận xét về cuốn Văn minh Đông Phương và Tây PhươngLời kếtCảm Nhận Của Độc Giả Văn minh Đông Phương và Tây Phương là một cuốn sách nổi tiếng khác của học giả Nguyễn Duy Cần. Cụ Nguyễn Duy Cần là một nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhà văn lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 20. Cụ để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có giá trị tham khảo vô cùng lớn. Những cuốn sách của Nguyễn Duy Cần đến nay vẫn được người đọc vô cùng trân trọng bởi những giá trị vượt thời gian. Những cái tên nổi bật phải kể đến như Tôi tự học, Óc sáng suốt, Thuật yêu đương, Cái dũng của thánh nhân, Văn minh Đông Phương và Tây Phương,… Review sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương – một cái nhìn sâu sắc về văn hóa Đông Tây Sách hay nên đọc Review sách Tôi tự học – Cách học xứng đáng với cái tầm của từng trang sách Công ty phát hành NXB Trẻ Ngày xuất bản 2017-04-11 000000 Kích thước 13 x 19 cm Số trang 168 Nội dung cuốn Văn minh Đông Phương và Tây Phương Trước tình trạng người Việt chuộng Tây hơn Đông, người phương Đông bị Tây hóa quá nhanh, cuốn sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương bàn luận về những cái hay, những giá trị vượt bậc của Đông phương và những cái chưa hay trong nền văn hóa Tây phương. Phân tích, so sánh những cái hay dở trong tinh thần, tư tưởng, đạo lý giữa hai nền văn minh, Văn minh Đông Phương và Tây Phương rút ra những cái chung nhất như sau Người phương Đông Dễ thấy, sách vở kinh điển của Đông phương thường dùng lối hành văn rất vắn tắt, ít lý luận và không đi vào mình chứng dài dòng. Mục đích của lối viết ấy là để người đọc phải dụng công suy nghĩ. Việc của họ là gợi lên trong người đọc manh nha những luồng tư tưởng chứ không truyền bá, gượng ép. Hiểu biết là phải tự mình tìm ra, tự mình chiêm nghiệm chứ không phải được nhồi sọ. Học của người khác không phải để chạy theo họ, mà để làm sâu hơn, làm dày hơn vốn hiểu biết của mình. Theo Văn minh Đông Phương và Tây Phương, người phương Đông thiên về phẩm và coi nhẹ lượng. Họ luôn tự đặt những câu hỏi về bản thân với mục đich cuối cùng là tu tập để giải thoát. Đặt mục đích tối cao là hiểu bản thân, vì hiểu bản thân – cái tiểu vũ trụ trong chính mình, thì mới hiểu được vũ trụ cao rộng ngoài kia. Nhiều nước phương Đông bị tụt hậu so với phương Tây vì họ không trọng vật chất. Đa số các nước này đã trở thành thuộc địa của các nước thống trị. Một số nước lại vươn lên thành cường quốc nhưng sau đó lại chà đạp lên các quốc gia khác. Review sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương – một cái nhìn sâu sắc về văn hóa Đông Tây Sách hay nên đọc Review sách Óc sáng suốt – Tư duy là một công trình nghệ thuật Người phương Tây Người phương Tây nhận xét rằng sách vở phương Đông viết tối tăm, mơ màng, không được rõ ràng và minh bạch như Tây phương. Trái lại, nhiều học giả phương Đông lại nhận xét lối văn của phương Tây là nông nổi, gượng ép, vì cố nhồi vào tâm trí người đọc những tư tưởng chủ quan của mình mà không cho họ tự khái quát, tự thấm thía, làm mất tinh thần và bản chất vốn có của người đọc. Theo Văn minh Đông Phương và Tây Phương, người phương Tây theo đuổi tự do vật chất. Nhiều người cho rằng tự do vật chất sẽ cho họ tự do tinh thần. Nhưng chính vì khát khao độc lập vật chất này, họ đã dồn loài người tới những cuộc chiến tranh phi nghĩa, cốt để tranh giành của cải và quyền lực. Gần 200 năm nay, loài người chạy theo chủ nghĩa vật chất, mải mê đánh chiếm mà quên mất việc quan trọng là phát triển tâm thức, nhìn sâu vào những nhu cầu bên trong mình. Trích dẫn hay từ cuốn Văn minh Đông Phương và Tây Phương Cái học của người Đông phương là cái học siêu hình về Bản thể, chứ không phải thuộc cái học về sắc tướng, hướng về sự trở nên như của người Tây phương. Người Đông phương suốt đời chỉ tìm mà thực hiện lại cái Duy nhất ấy, trở về cái nguồn gốc ấy bản thể. Bản thể có sẵn nơi mỗi người. Vì thế, người Đông phương không tìm cách trở nên cái toàn thiện của bên ngoài, nghĩa là không tìm mà mô phỏng theo cái toàn thiện của kẻ chung quanh. Trái lại, họ tìm mà thực hiện cái Bản thể nơi bản thân họ, cho nên cái học của họ là cái học từ giác, tu thân, phản tỉnh. Review sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương – một cái nhìn sâu sắc về văn hóa Đông Tây Và cũng nhân đó, quan niệm về sức mạnh của họ không phải đem cái vũ lực để chinh phục thế giới bên ngoài như Tây phương mà là cái sức mạnh tinh thần, lo chinh phục, chiến thắng mình trước hết. “Trước làm sáng cho mình, sau làm sáng cho người” “Tu thần, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” Trái lại, kẻ người Đông phương đã tự mình nhận chân được cái kho tàng bất tận nơi mình rồi, thì người đó ắt không còn khao khát gì về ngoại vật nữa, và cũng nhờ đó mà lòng họ được bình tĩnh, thản nhiên hơn với những biến cố trong đời. Theo người Tây phương, mỗi một cái gì bên ngoài kích thích ám ảnh mình mà mình mong ước và mình tìm được phương thế để thỏa mãn được, nghĩa là mình chinh phục hay thâu trữ được, đó gọi là một tiến bộ, … cho nên thời gian của họ rất eo hẹp. Họ trở nên bồn chồn, vất vả, lo âu, băn khoăn, náo động đến nỗi không kịp ngày giờ để trầm ngâm suy nghĩ. Bởi vậy, tâm họ thiếu kiên nhẫn, ưa vụt chạc, rất nóng nảy. Còn người Đông phương, trái lại hòa hoãn, ung dung, thản nhiên, bình tĩnh và thích trầm ngâm tư tưởng hơn. … Và vì thế, người Tây phương chê người Đông phương là làm biếng. Người Tây phương là người hành động. Họ đánh giá con người theo cái năng lực sản xuất vật chất của người ấy. Con người đắc lực của họ, tựu trung là người thành công về vấn đề tiền bạc, vì tiền bạc là phương tiện để họ sai sử thế giới chung quanh, để nâng cao giá trị bên ngoài, để bù đắp cái nghèo kém tinh thần của họ. Anh Trung Hoa nói “Hễ được phần này thì mất phần kia. Máy bay giúp cho người ta giao dịch mau lẹ, nhưng nó cũng đã giúp cho chiến tranh tàn phá gớm ghê. Cũng không có một tiến bộ gì mà không có một thối bộ khác bù vào.” Bình đẳng của Đông phương căn cứ trên sự bất bình đẳng tự nhiên, cho rằng con người sanh ra không ai bình đẳng cả về phẩm chất. Tuy nhiên, người Đông phương rất quý trọng cá nhân, mỗi cá nhân đều có giá trị tuyệt đối nếu họ biết thực hiện đến mức cùng cực cái thực thể của bản thân họ. Trong một dàn nhạc, cái tận thiện của một nhạc sĩ đờn vĩ cầm không giống cái tận thiện của một nhạc sĩ đờn dương cầm. Trích ” Văn minh Đông Phương và Tây Phương” Nhận xét về cuốn Văn minh Đông Phương và Tây Phương Sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm về văn hóa, khi cái hồn phương Đông đang bị chủ nghĩa thực dụng của phương Tây hút cạn. Đọc sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương, ta thấy trân trọng hơn tâm hồn, cốt tủy của một nên văn minh với những giá trị cao đẹp và sâu sắc. Nền văn minh phương Đông hướng nội giúp chúng ta sống bình tĩnh, than thản, chịu khó đi sâu vào bên trong để tìm hiểu chính mình và sống đời thiện lương hơn. Nguyễn Duy Cần đem tư duy của văn minh phương Đông vào những cuốn sách của cụ. Không gò ép ai theo tư tưởng của mình, không vẽ sẵn lối đi mà chỉ gợi mở để người đọc tự nghiên cứu và suy ngẫm. Dẫu rằng mỗi văn hóa đều có cái hay dở, nhưng trước thực trạng văn hóa Đông phương đang bị mai một này, chúng ta cần đọc để hiểu hơn và giữ gìn những gì quý giá nhất của dân tộc ta. Lời kết Cảm tạ cụ Nguyễn Duy Cần bởi những cuốn sách sâu sắc và giàu giá trị như Văn minh Đông Phương và Tây Phương. Vỏn vẹn 168 trang giấy, sách đã cho chúng ta quay ngược thời gian và nhìn sâu hơn vào tâm hồn dân tộc để thêm trân trọng nền văn minh Đông phương này. Sách hay nên đọc Review sách Thuật Yêu Đương – đừng nói ái tình không cần đến lý trí Cảm Nhận Của Độc Giả PHẦN MỞ ĐẦU Lịch sử văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần của xã hội loài người, tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Loài người ra đời và đã sáng tạo ra những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần cách đây hàng triệu năm. Ở phương Đông tức ở Châu Á và Đông Bắc Châu Phi, từ cuối thiên niên kỷ IV – đầu thiên niên kỷ III trước CN, có bốn trung tâm văn minh lớn, đó là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Cả 4 trung tâm này đều nằm trên lưu vực những con sông lớn như sông Nile ở Ai Cập, sông Euphrates và sông Tigris ở Lưỡng Hà, sông Ấn Indus và sông Hằng Gange ở Ấn Độ, Trường Giang và Hoàng Hà ở Trung Quốc. Nhờ sự bồi đắp của những con sông này nên đất đai ở đây màu mỡ, rất thuận lợi cho nền nông nghiệp xuất hiện và phát triển và hơn thế nữa là sáng tạo những thành tựu văn minh rực rỡ. Phương Đông cũng là cái nôi của văn minh nhân loại, nơi mà lần đầu tiên con người đã biết sáng tạo ra chữ viết, văn học, nghệ thuật và nhiều tri thức khoa học khác Ở phương Tây xuất hiện nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Tuy muộn hơn phương Đông từ thiên niên kỷ III đến thiên niên kỷ II trước CN nhưng Hy Lạp đã đạt được những thành tựu to lớn. Đến thế kỷ VI TCN, nhà nước La Mã bắt đầu xuất hiện. Kế thừa và phát huy văn minh Hy Lạp, La Mã trở thành một trung tâm văn minh lớn ở phương Tây. La Mã chinh phục Hy Lạp thế kỷ II TCN và tiếp đó chinh phục các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp ở phương Đông, trở thành đế quốc rộng lớn, hùng mạnh. Văn minh La Mã vốn chịu ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp, vốn có cùng một phong cách, giờ đây lại hòa đồng và tiếp biến với nó, nên người ta gọi chung hai nền văn minh này là văn minh Hy – La. Những thành tựu rực rỡ của văn minh Hi-La cổ đại được ghi vào lịch sử nhân loại như những ánh hào quang rực rỡ nhất. đã đặt một nền tảng khá vững chắc cho văn minh châu Âu nói riêng và mang đến cho nền văn hóa thế giới nói chung những thành tựu bất hủ mọi thời đại. Giá trị và tầm ảnh hưởng của văn minh phương Tây cổ trung đại được khẳng định và thừa nhận xét cho cùng chính là những giá trị có tầm ảnh hưởng đến thời đại ngày nay. Nói đến văn minh Phương Đông không thể không đặt nó trong mối tương quan với văn minh Phương Tây. Nếu chỉ nhìn văn minh Phương Đông với riêng nó sẽ thiếu tính khách quan, cần đặt Phương Đông trong sự liên hệ với Phương Tây. Giữa 2 nền văn minh này có nhiều điểm giống và khác nhau, tìm ra những điểm ấy của văn minh đông – tây cũng là tìm ra mấu chốt, là chìa khoá để mở ra cánh cửa đóng kín từ lâu của thế giới cổ đại đầy bí ẩn. Với tiểu luận này, tôi xin trình bày một số điều mình nghĩ về sự giống và khác nhau giữa các quốc gia cổ đại phương đông, phương tây trong thế giới cổ đại. Khoảng 3500 năm đến 2000 năm trước công nguyên, cư dân ở Tây Á, Ai Cập và cư dân ở lưu vực các sông còn lại đã sinh sống trên đồng bằng ở ven các con sông. Họ sống bằng nghê nông là chủ yếu và biết trồng mỗi năm hai vụ. Đồng bằng ven sông đã bù đắp rất nhiều cho con người. Vào mùa mưa hàng năm, nước sông dâng cao, phủ lên các chân ruộng thấp một lớp phù sa màu mỡ và làm cho đất rất mềm, dễ làm với cả những chiếc cày bằng gỗ. Cư dân phương Đông sống bằng nghề nông là chủ yếu nên trước tiên họ phải lo đến công tác thuỷ lợi. Họ đã biết đào các hệ thống kênh, lập hệ thống gầu để múc nước ở chân ruộng thấp và đưa nước lên chân ruộng cao những khi cần. Ngoài ra, họ còn biết đắp đê để ngăn lũ nhờ thế con người có thể thu hoạch lúa ổn định hằng năm. Công việc trị thuỷ khiến moi người gắn bó và ràng buộc với nhau trong tổ chức công xã. Điều kiện hình thành nền văn minh phương Tây cổ đại Hi Lạp cổ đại Hi Lạp cổ đại nằm ở phái Nam bán đảo Balkans, giống như cái đinh ba của thần biển từ đất liền vươn ra địa Trung Hải. Thế kỉ IX TCN, người Hi Lạp gọi tên nước mình là Hellad hay Ellad dựa theo tên tộc người của họ. Qua phiên âm từ Trung Quốc, ta gọi là Hi Lạp. Đất đai Hi Lạp cổ đại bao gồm Hi Lạp ngày nay, các đảo trong biển Aegean tới phía Tây Tiểu Á, và phía Bắc của Bắc Hải, nhưng vùng quan trọng nhất là vùng lục địa Hi Lạp ở phía Nam Balkans. Lục địa Hi Lạp gồm 3 phần miền Bắc là vùng đồng bằng rộng lớn và quan trọng nhất Hi Lạp; miền Trung ngăn cách với phía bắc bởi đèo Thermopil hiểm trở, nơi đây có 2 đồng bằng lớn là Attique và Beotie trù phú với thành thị Athens nổi tiếng; miền Nam là bán đảo Peloponesus như hình bàn tay bốn ngón xòe ra Địa Trung Hải – đây là nơi xuất hiện nhà nước thành bang đầu tiên của Hi Lạp – nhà nước Sparta. Mặc dù có nhiều đồng bằng rộng lớn nhưng nhìn chung đất đai Hi Lạp không phì nhiêu lắm, chủ yếu trồng nho, ô liu và phát triển các nghề thủ công, còn lương thực chính là lúa mì phần lớn được nhập từ Ai Cập. Địa hình Hi Lạp tương đối trở ngại về giao thông đường bộ nhưng có sự thuận lợi tuyệt vời với con đường giao thông trên biển, bờ biển có nhiều cảng, vịnh, thuận lợi cho tàu bè hoạt động. Từ đây, người Hi Lạp dễ dàng tới vùng Tiểu Á, Bắc Hải để giao thương. Nằm giữa vùng tiếp giáp giữa 3 châu, Hi Lạp sớm tiếp thu những thành tựu của nền văn minh phương Đông cổ đại và tạo ra một nền văn minh Hi Lạp cổ đại độc đáo và rực rỡ, với những thành tựu tuyệt vời đóng góp cho sự phát triển của văn minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung. La Mã cổ đại Nơi phát sinh quốc gia La Mã cổ đại là bán đảo Ý – một dải đất dài và hẹp như chiếc hia duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải với diện tích lớn gấp 5 lần bán đảo Hi Lạp. Phía Bắc có dãy núi Apels như một bức tường thành tự nhiên ngăn cách bán đảo với lục địa châu Âu; ba phía Đông, Tây, Nam đều có biển bao bọc. Dãy núi Apennines như một chiếc xương sống chạy dọc bán đảo từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Khác với Hi Lạp, điều kiện tự nhiên của La Mã tương đối thuận lợi hơn. Nơi đây có nhiều đồng bằng rộng lớn, màu mỡ và phì nhiêu đồng bằng sông Pô miền Bắc, đồng bằng sông Tibrơ miền Trung, các đồng bằng trên đảo Xixin. Ở miền Nam còn có nhiều đồng cỏ rộng lớn thuận tiện cho việc phát triển nghề nông và chăn nuôi gia súc. Ở phía Tây và Nam, bờ biển có nhiều cảng, tàu bè ra vào dễ dàng, thuận lợi cho giao thông và buôn bán.  Tóm lại đặc điểm kinh tế. Kinh tế của họ phát triển đến thời cổ đại đều đã kinh qua nền sản xuất nguyên thuỷ, công xã thị tộc. Hay nói cách khác sự tan rã của nền kinh tế nguyên thuỷ là tiền đề để hình thành nền kinh tế cổ đại ở cả các quốc gia phương đông và phương tâyì đều trải qua nền sản xuất nguyên thuỷ nên họ đều có những điểm giống nhau, đều trải qua mô hình sản xuất công xã thị tộc, công xã nông thôn, đều có nền kinh tế đi lên từ nông nghiệp -Kinh tế của họ phát triển đều dựa vào điều kiện tự nhiên, phát huy thế mạnh mà tự nhiên ban tặng cũng như hạn chế đến mức tối đa các khó khăn từ điều kiện tự nhiên gây ra với kinh tế ở phương đông là tận dụng lương mưa và đất phù sa để phát triển nông nghiệp, hạn chế hậu quả do lũ lụt gây ra, ở phương tây là phát huy thế mạnh về hàng hải và thủ công nghiệp, hạn chế khó khăn do thiếu hụt lương thực gây raở phương tây, đất đai không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nên phải dựa vào thương nghiệp để mua lương thực cho những năm mất mùa Ở cả các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây các ngành kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp đều đã có đủ sự khác nhau chỉ ở chỗ họ lấy nghành kinh tế nào là mũi nhọn để phát triển mà thôi. Ở phương Đông đặc trưng kinh tế của họ là nền kinh tế nông nghiệp mang tính chất tự cấp,tự túc tế thủ công nghiệp và thương nghiệp có tồn tại nhưng không có điều kiện phát triển, được coi như nghề phụ trong những lúc nông nhànái lại các quốc gia cổ đại phương tây nền kinh tế chủ yếu của họ là thủ công nghiệp và thương là nơi hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá cổ đại đây ta sẽ đi rõ vào chi tiết từng ngành sản xuất để thấy rõ hơn sự khác biệt trên nông nghiệp các quốc gia cổ đại phương đông nông nghiệp trồng lúa nước là ngành kinh tế chủ yếu, là cơ sở kinh tế của tất cả các quốc gia cổ đại phương đông. Bên cạnh việc lấy nghề nông làm gốc, cư dân phương đông thời cổ đã biết chăn nuôi gia súc như bò, cừu, lợn , và biết trồng các loại ngũ cốc khác nhau như ngô, lúa mạch, kê, vừng và các loại cây ăn quả khác. Chính vì các nghành nông nghiệp phát triển theo hướng tự túc, tự cấp như vậy nên kinh tế hàng hoá không phát triển, nhu cầu trao đổi buôn bán hàng hoá ít. Lối sản xuất này của họ đã gần như bóp nghẹt kinh tế công thương nghiệp và tạo ra sự trì trệ tương đối nhưng vì 3 trong 4 quốc gia cổ đại phương đông nằm biệt lập với thế giới bên ngoài nên nền kinh tế tự túc, tự cấp là phù hợp với điều kiện phát triển của họ. Chỉ có Lưỡng Hà nằm ở nơi địa hình bằng phẳng nên phát triển hơi khác về kinh tế họ phát triển công thương nghiệp và là một trung tâm thương nghiệp lớn trong thế giới cổ đại họ có nhiều nét giống các quốc gia cổ đại phương tây nhưng về bản chất họ vẫn lấy nghề nông làm gốc điều này thể hiện rất rõ qua bộ luật Hammurabi bộ luật thành văn đầu tiên của thế giới bộ luật này chủ yếu bảo vệ nông nghiệp và quan hệ sản xuất nông nghiệp. 1Ở các quốc gia cổ đại phương tây nền kinh tế nông nghiệp không phát triển như các quốc gia cổ đaị phương đông. Nền nông nghiệp của họ chủ yếu gắn với thị trường và phục vụ nhu cầu của thị trường. Cây trồng chính của họ không phải là cây lúa nước họ chủ yếu trồng lúa mì và các cây công nghiệp lâu năm như nho, ô liu Như vậy ta có thể thấy nền nông nghiệp của họ không chỉ để phục vụ nhu cầu cá nhân mà còn phục vụ nhu cầu của thị trường. Từ đó ta có thể thấy rõ sự phát triển của yếu tố thị trường trong sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là sự khác nhau cơ bản của sản xuất nông nghiệp phương đông và phương tây. 2. Trong thủ công nghiệp các quốc gia phương đông họ đã biết làm nhiều nghề thủ công với những dấu ấn riêng ở mỗi quốc gia như đồ gốm sứ ở Trung Quốc, Lưỡng Hà, dệt ở Trung Quốc, làm giấy ở Ai Cập nhưng kinh tế thủ công nghiệp ở đây vẫn bị cho là nền kinh tế bổ trợ cho nông nghiệp. Vì vậy độ chuyên môn hoá trong sản xuất thủ công nghiệp chưa cao. Ở nhiều nơi nghề thủ công chỉ được coi như “nghề phụ” là việc sông Nin ở Ai Cập, Sông Tigơrơ và Ơphơrát ở Lưỡng Hà, Sông Ấn và sông Hằng ở Ấn Độ, Sông Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc. Chính các con sông này đã tạo nên các đồng bằng phì nhiêu, các vụ mùa bội thu và quan trọng nhất là tạo ra các nhà nước cổ đại phương đông. Không một quốc gia phương đông cổ đại nào mà lại không có một dòng sông lớn chảy qua. Nhờ lớp đất phù sa có nơi dày tới vài mét nên nông nghiệp phương đông vẫn phát triển dù thời kì đó công cụ lao động của họ chủ yếu là gỗ, đá và đồng đỏ họ có thể canh tác mà không cần công cụ bằng sắt. Một yếu tố tự nhiên khác làm cho sự phân hoá đông – tây là khí hậu và địa hình. Như ta đã biết một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì phải dựa vào điều kiện khí hậu và địa hình. Ví dụ ở nước ta cũng như đa số các quốc gia phương đông nền kinh tế nông nghiệp lúa nước phát triển do nó hình thành trên cơ sở các đồng bằng rộng lớn có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Sở dĩ 2 yếu tố này đi với nhau vì nó bổ xung lẫn nhau vì có những nơi như ở La Mã cổ đại có các đồng bằng khá lớn như đồng bằng Pô và đồng bằng Tibrơ nhưng nền kinh tế nông nghiệp không dữ vai trò chủ đạo vì khí hậu ở đây là khí hậu Địa Trung Hải tuy có nhiều nét giống với khí hậu nhiệt đới nhưng lượng mưa hàng năm ít hơn nhiều, còn ở một số vùng như ở Trung Phi và một số vùng núi cao ở nước ta lượng mưa trong năm khá cao nhưng do địa hình gồ ghề không có các đồng bằng châu thổ rộng lớn nên không có điều kiện phát triển nhà nước. Theo như những gì nãy giờ ta phân tích về sự quan trọng của sông ngòi, địa hình, khí hậu làm nền tảng cho nền nông nghiệp phương đông thì những điều kiện đó không có đủ như ở các quốc gia phương tây. Vậy cơ sở tự nhiên để hình thành các quốc gia cổ đại phương tây là gì? Như đã nói từ đầu nền kinh tế các quốc gia cổ đại phương tây là nền kinh tế dựa trên sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp, nông nghiệp chỉ là thứ yếu, là nguyên liệu cho thủ công nghiệp và thương nghiệp vì thế các quốc gia cổ đại phương tây không cần các điều kiện như ở phương đông. Nhưng họ cũng là con người, cũng phải tuân theo các quy luật nhất định nhà nước chỉ hình thành khi kinh tế đạt đến một mức nào đó khi mà quan hệ công xã thị tộc bị giải thể vì sự tư hữu trong tư liệu sản xuất. Các quốc gia phương tây không cần các điêu kiện như phương đông vì họ dựa trên thủ công nghiệp và thương nghiệp. Hi Lạp và La Mã đều là các quốc gia nằm trên các bán đảo lớn ăn ra biển, có nhiều vũng, vịnh kín gió thuận lợi cho phát triển hàng hải. Hơn nữa 2 bán đảo Bancăng và Italia đều nằm trong vùng biển Địa Trung Hải vùng biển này 3 mặt là 3 châu lục Á, Phi, Âu bao bọc nên tương đối yên bình, ít bão lớn. Vì thế từ thời cổ đại khi kĩ thuật đóng tàu chưa phát triển hoàn thiện người ta vẫn có thể vượt biển để buôn bán. Đất đai và khí hậu ở đây tuy không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp lúa nước nhưng bù lại khí hậu và đất đai ở đây lại thuận lợi cho việc trồng một số cây công nghiệp lâu năm như nho, ôliu. Đây là nguyên liệu để sản xuất rượu nho và dầu ôliu 2 mặt hàng có thể cho là “đặc sản” của các quốc gia cổ đại phương tây. Hơn nữa đất đai của họ không thích hợp với sản xuất nông nghiệp nên để có nguồn lương thực đáp ứng nhu cầu họ phải tiến hành trao đổi, buôn bán với các quốc gia dồi dào lương thực ở phương đông như Ai Cập, Lưỡng Hà đây cũng là những thị trường tiêu thụ rộng lớn của họ. 3. So sánh nền văn minh phương đông cổ đại và phương tây cổ đại về chính trị – xã hội Cũng giống như về kinh tế, về chính trị – xã hội cổ đại phương đông và xã hội cổ đại phương tây có những nét giống và khác nhau nhất định. 3. Giống nhau Do cùng trải qua xã hội nguyên thuỷ trước khi hình thành các quốc gia cổ đại của mình nên giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây cũng có những nét giống nhau. Cơ sở của việc hình thành nhà nước là sự phân chia giai cấp và sự tư hữu về tư liệu sản xuất nên xã hội cổ đại phương đông và phương tây đều chia làm 2 tầng lớp là tầng lớp thống trị bao gồm tăng lữ, quý tộc ở phương đông và chủ nô ở phương tây, tầng lớp bị trị là những nông dân công xã, dân tự do và nô lệ. chưa có sự xuất hiện của công cụ bằng sắt. “Thậm chí người Ai Cập mới chỉ biết đến công cụ bằng đá và gỗ”Lịch sử thế giới cổ trung đại. Trong khi đó các quốc gia cổ đại phương tây bước vào quá trình hình thành nhà nước muộn hơn nhiều theo một số tài liệu thì đó là vào khoảng thế kỉ VIII- VII TCN. Đây cũng là sự khác nhau về chính trị giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây. Điểm khác nhau tiếp theo về chính trị giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây là các quốc gia cổ đại phương đông tồn tại một cách khá cách biệt với thế giới bên ngoài nên họ tồn tại và phát triển một cách khá độc lập liên tục mà không chịu ảnh hưởng của nền văn minh nào khác từ bên ngoài nếu bị xâm lược thì thường giành lại độc lập sau đó. Trong khi đó chính trị, xã hội của các quốc gia cổ đại phương tây chịu ảnh hưởng khá lớn từ các lực lượng bên ngoài. Họ thường phải chịu những cuộc xâm lược của các bộ tộc khác tiêu biểu là cuộc xâm lược của người Giecmanh cuộc xâm lược này đã làm sụp đổ đế chế La Mã đồng thời cũng chấm dứt lịch sử cổ đại châu Âu mở ra thời kì phong kiến. Về mặt tổ chức nhà nước thì các quốc gia cổ đại phương đông lãnh thổ của họ thường khá rộng lớn và là một nhà nước thống nhất ví dụ như Ai Cập, Trung Quốc, Lưỡng Hà. Lịch sử Ấn Độ, Ai Cập, Trung Quốc cũng có một số thời kì bị chia cắt nhưng các vùng chia cắt thường không khác nhau lắm về chính trị, xã hội, hơn nữa thì chúng thường được nhanh chóng thống nhất trở lại. Nhưng ở các quốc gia cổ đại phương tây đặc biệt là ở Hi Lạp cổ đại, nhà nước của họ tồn tại dưới hình thức thành bang tức là trên lãnh thổ đó tồn tại nhiều tiểu quốc nhỏ với chế độ tổ chức nhà nước khác nhau giữa các thành bang không có sự giống nhau ví dụ thành bang Aten là thành bang có hình thức hội đồng 500 và hội đồng công dân đứng đầu là 10 nhà chiến lược kiệt xuất được bầu chọn, ở Xpác cũng có hội đồng nhân dân nhưng chủ chốt lại là ở 2 vua và 5 quan giám sát. Ở Rôma thời kì đế chế tuy lãnh thổ mở rộng nhưng về bản chất vẫn không có sự quản lý chặt chẽ thành một khối như ở các quốc gia cổ đại phương đông. Sự khác nhau về xã hội Theo quy luật khách quan của lịch sử thì tiếp theo xã hội cổ đại sẽ là xã hội chiếm nô nhưng do một số nguyên nhân về điều kiện tự nhiên và xã hội nên ở phương đông tồn tại một cách dai dẳng chế độ công xã nông thôn 1 hình thức tổ chức xã hội mà trong đó duy trì nền kinh tế tự nhiên và nhiều tàn dư của công xã nguyên thuỷ. Vì vậy nên xã hội chiếm nô ở phương đông không phát triển đến mức thành thục, điển hình như ở các quốc gia phương tây nơi số lượng nô lệ đông gấp hàng chục lần chủ nô và bình dân. Điều khác nhau tiếp theo giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây là về lực lượng chính lao động để làm ra của cải vật chất. Ở các quốc gia phương tây với nền kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển, lực lượng chính làm ra của cải vật chất là những người nô lệ, một thứ “công cụ biết nói”, còn ở các quốc gia cổ đại phương đông với nền kinh tế nông nghiệp phát triển thì vai trò này thuộc về những nông dân công xã. Lực lượng lao động chính khác nhau cũng cho thấy sự khác nhau về bản chất xã hội giữa các quốc gia cổ đại phương đông và các quốc gia cổ đại phương tây. Do sự khác biệt trong lực lượng sản xuất chính giữa xã hội cổ đại phương đông và xã hội cổ đại phương tây nên mâu thuẫn xã hội giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây cũng khác nhau. Ở xã hội cổ đại phương đông dó là mâu thuẫn giữa 2 giai tầng chính là giai cấp thống trị vua, quan, quý tộc và giai cấp bị trị nông dân công xã, nô và thợ thủ công. Ở các quốc gia cổ đại phương tây thì có vẻ phức tạp hơn vì ngoài 2 giai cấp đối kháng là chủ nô và nô lệ thì lại có thêm một tầng lớp không bóc lột ai nhưng cũng không bị ai bóc lột, họ là những người dân tự do nghèo, Mác đã gọi họ là tầng lớp “vô sản ăn bám” họ sống nhờ vào phúc lợi xã hội mà không cần phải lao động gì. Đó cũng là sự khác biệt giữa các quốc gia cổ đại phương đông và các quốc gia đại phương tây. Trong cơ cấu xã hội của các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây cũng có chủ chủ nô ở phương tây. Do ở phương đông nền kinh tế nông nghiệp tự túc, tự cấp phát trỉển còn ở phương tây có nền kinh tế hàng hoá, công thương nghiệp phát triển nên yêu cầu về chính trị, xã hội khác nhau. Ở phương đông với nền kinh tế nông nghiệp thì thuỷ lợi là vấn đề hàng đầu, nhưng trị thuỷ phải có sự góp sức của nhiều người vì thế chế độ tập quyền chuyên chế giúp vua có khả năng trong điều hành các công việc chung dễ dàng hơn. Ngoài ra các vị vua phương đông thường mượn thần quyền để tăng uy tín của mình. Trái lại ở phương tây họ hình thành các quốc gia cổ đại muộn hơn nên có thể tiếp thu thành tựu phương đông. Trong các quốc gia phương đông cổ đại Lưỡng Hà là nước dân chủ hơn cả cộng thêm với việc thương nghiệp ở đây phát triển nên theo tôi các quốc gia phương tây đã học tập và hoàn thiện chế độ ở Lưỡng Hà và lập ra các nhà nước dân chủ chủ nô nhằm hạn chế sự chuyên quyền của vua đồng thời tạo tính dân chủ trong xã hội. Hơn nữa nền kinh tế công thương nghiệp của họ không cần có một vị vua chuyên quyền để cai trị, nền kinh tế công thương coi trọng sự công bằng hơn nữa họ muốn không chỉ có địa vị kinh tế mà còn có địa vị xã hội nên đó cũng có thể là lý do hình thành nhà nước dân chủ chủ nô ở các quốc gia cổ đạu phương tây. Nguyên nhân nhà nước chiếm hữu nô lệ phương tây phát triển một cách thuần thục và điển hình trong khi ở các quốc gia phương đông thì không do ở phương tây, kinh tế công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ lực lượng dân tự do không đáp ứng kịp từ đó nảy sinh nhu cầu cần một lực lượng chính chuyên môn hoá sản xuất, phục vụ cho nhu cầu công thương nghiệp hơn nữa giữa các quốc gia cổ đại phương tây thường sảy ra chiến tranh để cướp đoạt nô lệ, của cải vì thế số lượng bình dân giảm nhưng số lượng nô lệ lại tăng vì thế bóc lột bình dân như ở các nước phương đông không không còn phù hợp. Vì thế theo em ban đầu nô lệ ở phương tây cũng mang tính gia trưởng như ở phương đông nhưng sau đó do nhu cầu phát triển kinh tế công thương nghiệp nên xã hội chiếm nô ở đây ngày càng phát triển tới mức thành thục và điển hình. Nguyên nhân của sự chênh lệch về thời gian hình thành giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây do ở phương đông có điều kiện tự nhiên thuận lợi khí hậu phù hợp, đất phù sa màu mỡ rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp nhưng cũng phải lo làm thuỷ lợi phòng lũ lụt nên từ rất sớm các công xã nông thôn đã hợp nhất thành các liên minh bộ lạc lớn rồi từ đó hình thành các quốc gia cổ đại vì thế ngay cả khi loài người còn đang ở thời kì đá – đồng, khi mà công cụ bằng sắt chưa xuất hiện thì họ vẫn có thể thành lập các nhà nước cổ đại. Trái lại, ở phương tây đất canh tác không màu mỡ bằng, khí hậu không phù hợp để canh tác nông nghiệp vì thế chỉ khi công cụ bằng sắt ra đời từ khoảng giữa TNK I TCN thì các quốc gia cổ đại phương tây mới hình thành. Ở đây ta lại có thắc mắc tại sao các quốc gia phương tây phát triển công thương nghiệp lại cần sự phát triển nông nghiệp ở thời đồ sắt lý do rất đơn giản vì nông nghiệp là cơ sở của mọi ngành kinh tế, là hình thức kinh tế giúp con người tồn tại, không ở đâu là không cần nông nghiệp phát triển kể cả các quốc gia phương tây vì nông nghiệp là cơ sở để duy trì sự tồn tại của xã hội Nguyên nhân sự khác nhau về giai cấp đối kháng giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tâylý do sự khác nhau đó đến từ thể chế chính trị, xã hội. Ở các quốc gia phương đông cổ đại hình thức chính trị xã hội chủ yếu của họ là hình thức tập quyền chuyên chế vì thế mâu thuẫn giai cấp chủ yếu sảy ra giữa nông dân công xã và quý tộc, quan lại trong khi đó ở các quốc gia cổ đại phương tây nền dân chủ chủ nô phát triển mâu thuẫn chủ yếu là giữa chủ nô và nô lệ nhưng trong xã hội cổ đại phương tây lại có sự phức tạp hơn phương đông ở chỗ ngoài hai giai cấp đối kháng chủ yếu là chủ nô và nô lệ còn xuất hiện giai cấp bình dân họ không bị bóc lột như nô lệ nhưng cũng không bóc lột trực tiếp đối với nô lệ họ sống nhờ vào phúc lợi xã hội giai cấp vô sản ăn bám. Giai cấp này hình thành trên cơ sở sự phát triển của chế độ chiếm nô khi của cải trong xã hội đã tích luỹ 1 lượng của cải đủ nuôi sống cả xã hội. Họ sống nhờ vào chính quyền chiếm nô nên có quan hệ lệ giai đoạn lịch sử đông Ktruc cổ của các nước phương Đông có đặc điểm là thường gắn với tôn giáo, người pđ rất trọng tâm linh nên họ thường tập trung của cải, sức lực để xây dựng các đền tháp đồ sộ để mời các vị thần về, cầu mong các thần phù hộ. Do đó, ở Phương Đông nhiều công trình mang tính chất tôn giáo đã ra đời và dựng lên ở hầu khắp các nước một tấm thảm nghệ thuật vô cùng đa dạng và huyền bí. Từ những tác phẩm nhỏ bé và tinh xảo tới những công trình khổng lồ , vừa mang nét thiêng liêng phồn thịnh của nền mỹ thuật Ấn Độ lại có những tác phẩm mang vẻ đẹp tinh vi óng chuốt của phong cách siêu quán Trung Hoa. Có thể nói, trong quá trình phát triển văn minh, người Phương Đông nói chung và người Ai Cập cổ đại nói riêng đã tạo ra những di sản văn hóa cực kỳ quý báu và đồ sộ trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là kiến trúc Ai Cập cổ đại đã đạt tới một trình độ rất cao. Kiến trúc Ai Cập cổ đại chủ yếu là các đền đài tôn giáo với các cấu trúc khổng lồ và sự thần bí của không gian, được xác định bởi các bờ tường dày và dốc với ít lỗ mở. Các công trình kiến trúc tiêu biểu là cung điện, đền miếu và đặc biệt là Kim tự tháp. Nói đến Ai Cập người ta nghĩ ngay đến những Kim tự tháp đứng sừng sững giữa sa mạc mênh mông. Chúng như những tấm bia khổng lồ ghi lại một thời đại huy hoàng trong lịch sử kiến trúc nhân loại, thể hiện được sức sáng tạo kỳ diệu của những người xây dựng nên nó. Bằng bàn tay và khối óc của mình, người dân Ai Cập cổ đại đã để lại cho nền văn minh nhân loại những giá trị nghệ thuật kiến trúc vô giá. Bên cạnh những giá trị về mặt kiến trúc, Nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cũng có nhiều thành tựu lớn, thành tựu đó biểu hiện ở hai mặt tượng và phù điêu. độc đáo nhất trong lĩnh vực điêu khắc của Ai Cập cổ đại là tượng Xphanh khổng lồ gọi là nhân sư, là những bức tượng mình sư tử, đầu người hoặc dê. Đây là một quái vật huyền thoại của người Ai Cập, thể hiện sức sáng tạo kỳ diệu của người dân Ai cập cổ xưa. Ngoài những công trình lớn nêu trên, mỹ thuật Ai Cập Cổ đại còn đạt tới trình độ hoàn hảo, trong các tranh tượng vừa và nhỏ, theo phong cách tả thực rất tinh vi và đặc sắc trong đó kết hợp chặt chẽ giữa điêu khắc và hội họa. Các tác phẩm tiêu biểu như Tượng đá vôi màu ; Viên thư lại ngồi ,tượng gỗ Cheikh e Beled là tượng gỗ vào loai đẹp và cổ nhất Ai Cập còn lưu lại đến ngày nay. Phù điêu đá vôi Tigrane Pacha. tượng đồng Reine Karomama. Đặc biệt bức phù điêu tuyệt đẹp trên đá tô màu Seti I và Nữ Thần Hathor Nằm ở khu vực Tây Á, Lưỡng Hà cổ đại thuộc vùng đất nằm trong lãnh thổ hai nước Irắc vàCoóet đai Lưỡng Hà được hai con sông Tigre và Euphrate bồi đắp phù sa màu mỡ. Ở đây đã có một nền nghệ thuật phát triển rất cao, nhưng do điều kiện địa lý, họ đã phải dùng nhiều vật liệu không bền như gạch không nung trong kiến trúc, nên nhiều công trình bị động đất và thời gian tàn phá. Thời cổ đại, các công trình kiến trúc chủ yếu là tháp, cung điện, đền miếu, thành, vườn hoa,. Nổi lên trên quần thể kiến trúc thành, cung điện là vườn treo Babilonàn bộ vườn treo thực chất là một vườn hoa được tạo dựng trên không, được xây dựng vào cuối thế kỷ VII, đầu thế kỷ VI TCN. Đây là công trình kiến trúc, là chứng tích cho một huyền thoại về tình yêu cuồng nhiệt của những vị vua, hoàng hậu, và công chúa xinh đẹp xứ Mađi. Nghệ thuật điêu khắc gồm tượng và phù điêu. Những tác phẩm tương đối tiêu biểu là “ bia diều hâu” 2800 Tr được tạc để kỷ niệm chiến thắng của Vua thành Lagash , bia Naram Sin khoảng 2700 Tr , Bảo tàng Louwre bia này làm bằng sa thạch đỏ cao 2 mét nay còn nguyên vẹn , vốn là để kỉ niệm chiến thắng của vua Naram Sin. các tượng Vua Goudea 2400Tr là đỉnh cao của nghệ thuật Sumer và Akkad với phong cách dứt khoát và mạnh mẽ. Ngoài ra ta còn biết tài hoa của các nghệ sỹ qua Con dấu trục , “Cột đá naramxin”, “bia điều luật Hamourabi”, phù Mục lục Văn minh là gì? Sự khác nhau giữa văn minh và văn hóa Tìm hiểu đôi nét nổi bật của văn minh phương Đông Văn minh Lưỡng Hà Văn minh Ai cập Văn minh Trung Hoa Văn minh Ấn Độ Văn minh phương tây có điểm gì khác biệt? Văn minh Hy Lạp Văn minh La Mã Văn minh là thuật ngữ quen thuộc, tuy nhiên không phải ai cũng có thể định nghĩa chính xác. Trong bài viết chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về khái niệm văn minh là gì? Đồng thời tìm hiểu các điểm nổi bật tiêu biểu của hai nền văn minh phương Đông và văn minh phương Tây của nền lịch sử văn minh nhân loại. 1. Văn minh là gì? Theo văn minh thuộc danh từ Hán Việt, trong đó chữ "văn" mang nghĩa vẻ đẹp, còn "minh" là sáng. Hàm ý chỉ tia sáng của đạo đức, biểu hiện ở văn hóa, chính trị, pháp luật và nghệ thuật. Văn minh là khái niệm chỉ mang tính chất tương đối, thể hiện trạng thái tiến bộ về mặt vật chất, khoa học kỹ thuật và máy móc nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người trong xã hội. Trái nghịch với văn minh là hoang dã, và lạc hậu. UNESCO định nghĩa “Văn minh là khái niệm dùng để chỉ trình độ phát triển về giá trị vật chất là chủ yếu của một cộng đồng người trong một giai đoạn lịch sử nhất định đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại hoặc cả nhân loại”. Văn minh đã giúp cho chúng ta thực hiện quyền sống, quyền dân chủ và tự do của từng cá nhân. Văn minh được định nghĩa khác nhau tùy theo khía cạnh và mỗi nền văn hóa. Theo quan niệm phương Tây, văn minh trong tiếng Pháp là civilisation, còn trong tiếng Anh văn minh được thể hiện bằng từ civilization. Chữ văn minh trong tiếng Anh và tiếng Pháp có phần tương đồng nhau, cả hai đều có căn gốc Latinh là “civitas” với ý nghĩa là đô thị; thành phố. Mang hàm ý chỉ giai đoạn con người đã chuyển từ tình trạng cư trú, sinh sống theo tự nhiên sang định cư tổ chức đô thị và hệ thống giao tiếp mang tính biểu tượng như chữ viết. Nhìn chung, định nghĩa văn minh bao gồm bốn yếu tố cơ bản như sau đô thị, nhà nước, chữ viết và các biện pháp kỹ thuật cải thiện mang đến sự phát triển và tiến bộ vào đời sống của con người. Xem thêm Bí ẩn những bức tượng trên đảo Phục Sinh, từng có một nền văn minh nổi bật ở đây 2. Sự khác nhau giữa văn minh và văn hóa Tuy nhiên, chúng ta hay nhầm lẫn giữa “văn minh” và “văn hóa”. Bây giờ chúng ta cùng nhau tìm hiểu sự khác nhau giữa hai khái niệm này là gì nhé! Trước tiên cần phân biệt khái niệm văn hóa là gì? Văn hóa dùng để chỉ cách ta suy nghĩ, cư xử và hành động. Như đã biết văn minh là quá trình mà một quốc gia/ xã hội bước vào giai đoạn phát triển, tiến bộ của con người. Theo các nhà xã hội học của thế kỷ 19, văn hóa phát triển sớm hơn văn minh, có văn hóa mới có thể tạo ra văn minh và không chiều ngược lại. Văn minh là một tập hợp phức tạp được tạo thành từ nhiều thứ trong đó có văn hóa. Nói cách khác, văn hóa được tồn tại trong một nền văn minh Đồng thời chúng ta có thể xét về tính kế thừa, vì tính phức tạp của mình mà văn minh không thể được học hỏi và truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác giống như văn hóa. Một điểm dễ nhìn thấy nhất, chính là văn hóa đa phần được thể hiện trong tôn giáo, phong tục - tập quán, văn học - nghệ thuật, đạo đức, … Còn văn minh thì thể hiện ở các lĩnh vực như hành chính, kiến ​​trúc, luật, cơ sở hạ tầng - kỹ thuật. Từ đó biểu lộ qua bên ngoài, mà ta có thể nhìn thấy được bằng những kết quả cụ thể từ sản phẩm, thiết bị, công nghệ và hệ thống cơ sở hạ tầng. Xem thêm Xoay quanh một khái niệm tiêu biểu của triết học Ý thức xã hội là gì? 3. Tìm hiểu đôi nét nổi bật của văn minh phương Đông Khi nhắc đến lịch sử văn minh của nhân loại, chúng ta không thể không nhắc đến văn minh phương Đông được ra đời từ rất sớm. Ở giai đoạn này đã hình thành và phát triển nhiều thành tựu văn minh nổi bật. Bốn nền văn minh phương Đông thường được nhắc đến là văn minh Lưỡng Hà, văn minh Ai cập, văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Văn minh Lưỡng Hà Khi nhắn đến, nền văn minh Lưỡng Hà có lẽ ta sẽ nhớ ngay đến những thành tựu nổi bật trong văn học, có ảnh hưởng lớn đến khu vực Tây Á bao gồm hai thể loại chính văn học dân gian và sử thi. Theo đó, văn học dân gian như ca dao, truyện ngụ ngôn… phản ánh chân thực cuộc sống lao động của người dân và cách sống ở đời con người. Sử thi xuất hiện từ thời Xume, đến thời Babylon chiếm một vị thế vô cùng quan trọng. Văn học sử thi thường nhắc đến chủ đề ca ngợi những vị thần, đồng thời những câu chuyện về “khai thiên lập địa” sáng tạo ra loài người, hay “nạn hồng thủy”… trong kinh thánh. Nền văn minh Lưỡng Hà là cũng là khu vực tồn tại những bộ luật sớm nhất. Từ thời vương triều III của thành bang Ua thế kỷ XXII-XXI TCN, đã cho ban hành bộ luật cổ nhất thế giới. Tuy nhiên ngày nay chỉ còn lại một số đoạn nói đến vấn đề thừa kế tài sản, nuôi con nuôi, bảo vệ vườn quả hay trách nhiệm của người chăn nuôi đối với súc vật, sự trừng phạt đối với nô lệ chạy trốn, … Văn minh Ai cập Trong nền văn minh Ai Cập cổ đại, chúng ta không thể không nhắc đến những thành tựu nổi bật về chữ viết, văn học, kiến trúc và các kiến thức khoa học tự nhiên. Chữ viết của Ai Cập ban đầu là chữ tượng hình dần dần xuất hiện hình vẽ biểu thị âm tiết, dựa vào đó những chữ chỉ âm tiết được phát triển thành chữ cái. Nhờ vậy, tổng số chữ tượng hình có khoảng 1000 chữ, trong đó 24 chữ cái. Nền văn minh Ai Cập cũng sở hữu kho tàng văn học đa dạng thể loại như thơ ca trữ tình, tục ngữ, đặc biệt là những câu chuyện trào phúng, thần thoại mang đến bài học giáo huấn cho con người. Trong thời kỳ này, người dân Ai Cập thường thờ cúng các vị thần thiên nhiên như Địa thần và Thủy thần, thần thú bao gồm phượng hoàng, nhân sư, thậm chí là loại động vật dã thú, gia súc, chim đến côn trùng đặc biệt là bò mộng Apix. Nhắc đến nền văn minh Ai Cập ta cũng không thể quên tục ướp xác người đã mất. Kiến trúc của nền văn minh Ai Cập cổ đại cũng đạt đến trình độ rất cao, bằng chứng là một số công trình nổi tiếng vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay như Kim Tự Tháp, cung điện hay đền miếu. Xem thêm Ai Cập Tìm thấy hơn 20 cỗ quan tài cổ đầy huyền bí Văn minh Trung Hoa Người Trung Quốc chế tạo ra la bàn Nền Văn minh Trung Hoa thời cổ - trung đại có sức ảnh hưởng không nhỏ đến các nước phương Đông. Người Trung Hoa đã có Giáp cốt văn tức là chữ viết trên mai rùa, xương thú. Sau đó, dần dần biến đổi thành Thạch cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, chữ viết mới trong khuôn hình vuông gọi là chữ Tiểu triện. Nhắc đến Trung Hoa, ta không thể quên tập thơ cổ đã được Khổng Tử sưu tập và chỉnh lý. Thơ Đường là điểm sáng trong nền thơ ca, với những tác giả nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ hay Bạch Cư Dị. Một số tác phẩm tiểu thuyết được lưu truyền cho đến ngày như, thậm chí ngày nay còn được chuyển thể thành phim và mang đến nhiều bài học giá trị cho con người như Tam quốc chí diễn nghĩa, Thuỷ hử, Tây du ký hay Hồng lâu mộng. Về lĩnh vực, khoa học tự nhiên và kỹ thuật, trong nền văn minh Trung Hoa đã biết sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Nam-Bắc triều, nhà toán học Tổ Xung Chi còn tìm ra số pi xấp xỉ là 3,14159265. Người Trung Hoa cũng vẽ được bản đồ có tới 800 vì sao và xác định chu kì chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch Can-Chi. Đặc biệt, trong nền văn minh Trung Hoa đã có bốn phát minh quan trọng đóng góp cho nhân loại là giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in. Kiến trúc cũng là niềm tự hào của họ, khi sở hữu những công trình nổi tiếng trên toàn toàn thế giới như Vạn lí trường thành, Thành Tràng An, Cố cung, Tử cấm thành. Thuyết âm dương, Bát quái, Ngũ hành cũng được ra đời trong thời kỳ này. Theo đó, thuyết âm dương cho rằng vũ trụ luôn tồn tại hai loại khí là âm và dương. Thế giới được tạo thành từ 8 yếu tố Càn trời, Khôn đất, Chấn sấm, Tốn gió, Khảm nước, Ly lửa, Cấn núi, Đoài hồ, gọi chung là Bát quái. Và có 4 nguyên tố tạo thành vạn vật là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Về tư tưởng, trong nền văn minh Trung Hoa đã xuất hiện nhiều những nhà tư tưởng lớn như Khổng Tử, Lão Tử và Trang Tử đưa ra những đạo lý làm nhân, lối sống ở đời cho hợp luân thường đạo lý, nhằm tổ chức xã hội và giải thích những vấn đề trong đời sống. Văn minh Ấn Độ Trong nền văn minh của Ấn Độ đã mang đến những phát minh quan trọng không chỉ đối với người dân Ấn Độ mà còn cả thế giới. Trong đó, họ chia một năm làm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, mỗi ngày 30 giờ, cứ năm năm thì thêm 1 tháng nhuận. Ngoài ra, trong thời kỳ này đã biết được quả đất và mặt trăng là hình cầu, tính được quỹ đạo của mặt trăng và chu kỳ trăng tròn, trăng khuyết. Chưa dừng lại, các nhà thiên văn học Ấn Độ còn nhận định có 5 hành tinh trên trái đất gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ; biết được một số chòm sao và sự vận hành ngôi sao chính. Người Ấn Độ có một phát minh ra 10 chữ số trong lĩnh vực toán học, mà ngày nay được dùng phổ biến. Đến thế kỷ VI, người Ấn Độ tính số pi là 3,1416 và diện tích hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác lẫn hình đa giác. Học thuyết nguyên tử cũng được ra đời trong giai đoạn này. Điểm nổi trội trong ngành y khoa, từ thế kỷ VI, V TCN, người Ấn Độ biết cách chắp xương sọ, cắt màng mắt, mổ bụng lấy thai, lấy sỏi thận. Và điều chế thuốc tê giúp giảm đau khi mổ cho bệnh nhân. Như bạn đã biết, đạo Phật cũng có nguồn gốc từ Ấn Độ, sau đó mới lan rộng ra các quốc gia trong đó có Việt Nam. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như đạo Bàlamôn, đạo Hindu, hay đạo Xích. Xem thêm Phật Pháp và những câu nói giúp bạn nhận ra cuộc sống thật vô thường 4. Văn minh phương tây có điểm gì khác biệt? Trong nền văn minh phương Tây sở hữu điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho việc hình thành con đường giao thương hàng hải, tàu cảng, … khi các quốc gia thuộc khu vực Địa Trung Hải, đường biên giới có 3 mặt tiếp giáp biển. Từ đó, thúc đẩy các hoạt động kinh tế, giao lưu buôn bán hàng hóa giữa các quốc gia; song song với đó sẽ mang những thành tựu văn minh phương Tây truyền bá rộng rãi trên thế giới. Theo đó, hai nền văn minh Hy Lạp và La Mã giữ vai trò, đóng góp nhiều thành tựu tiến bộ vào nền văn minh phương Tây, đặt nền móng và tiếp thêm lửa cho thời Phục hưng ở Tây Âu, cũng như vào sự phát triển chung của nhân loại sau này. Hy Lạp có nền văn minh nổi bật Văn minh Hy Lạp Người Hy Lạp biết thêm các nguyên âm dựa trên chữ cái của xứ Phoenicia và biến nó thành chữ Hy Lạp. Theo thời gian, hình thành nên chữ Latinh và chữ Slavơ trở thành tiền đề cho chữ viết cho nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay. Văn học cũng là một trong những thành tựu tiêu biểu trong nền văn minh Hy Lạp với kho tàng truyện thần thoại, với những tác phẩm còn giữ nguyên giá trị cho đến hiện nay như Iliad và Odyssey của Homer. Đồng thời, còn mở đầu cho loại hình nghệ thuật đan xen hai yếu tố bi kịch lẫn hài kịch với nhau. Lũy thành của Athen là biểu tượng cho bước tiến bộ rõ rệt về mặt kiến trúc của nền văn minh Hy Lạp lúc bấy giờ, trở thành di sản văn hóa cho cả nhân loại. Nền văn minh Hy Lạp nói riêng hay nền văn minh Hy - La nói chung, đã cho chứng minh được những nổi trội về mặt y học, khi đã biết cách chữa bệnh bằng biện pháp uống thuốc hoặc phẫu thuật. Theo đó, thầy thuốc Hippocrates là người tạo ra phương phương này và được mệnh danh là “Cha đẻ của y học Phương Tây”. Như chúng ta đã biết về định lý Pythagoras được áp dụng trong lĩnh vực toán học cũng có nguồn gốc từ thời kỳ này. Các nhà khoa học, vật lý học người Hy Lạp cũng đã đề ra nguyên lí đòn bẩy, chế ra gương cầu lõm, máy bắn đá và phát hiện ra lực đẩy Acsimet. Ngành công nghiệp vận tải biển đã có từ thời cổ đại cũng chiếm "mũi nhọn" trong nền kinh tế của Hy Lạp cho đến ngày nay. Song song với các ngành nghề như dệt, hóa chất, dầu khí, đóng tàu, hay khai thác khoáng sản,... Xem thêm 5 phim La Mã hay nhất mọi thời đại, lôi cuốn người xem đến phút cuối cùng Văn minh La Mã Nền văn minh La Mã chịu ảnh hưởng, kế thừa một số ưu điểm nổi trội từ nền văn minh Hy Lạp. Về chữ viết, La Mã có chữ viết chính thức vào thế kỉ VI TCN cũng có nguồn gốc từ văn tự Hy Lạp. Đây được cho là loại chữ viết khá đơn giản, được áp dụng phổ biến. Sau này, chữ viết này dần dần được sử dụng ở các nước trên thế giới. Văn học La Mã cũng kế thừa những “điểm sáng” từ nền văn minh Hy Lạp, tuy nhiên cũng có sự phát triển thêm về thể loại như thơ, kịch, sử thi và cải biên hình thành hình tượng những vị thần riêng như thần Zeus – thần Jupiter, thần Hera, … Nền văn minh La Mã tuy chịu ảnh hưởng từ Hy Lạp nhưng đã tạo những công trình kiến trúc đồ sộ, khác biệt. Có thể kể đến như đấu trường Colosseum, nhà tắm Caracalla và đền thờ Pantheon. Không chỉ vậy, lĩnh vực điêu khắc cũng sở hữu nhiều tác phẩm để đời gồm pho tượng Vệ nữ ở Milo, tượng Lực sĩ ném đĩa, tượng nữ thần Athena, tượng thần Hecmet... Đặc biệt, trong thời kỳ văn minh La Mã đã cho ra mắt tác phẩm “Lịch sử tự nhiên” được coi như quyển Bách Khoa toàn thư, tập hợp toàn bộ tri thức từ các lĩnh vực từ Thiên văn học, Vật lí học, Địa lí học, cho đến Động vật học, Thực vật học… của nhà khoa học Plinius. Mặc dù nền văn minh Hy - La có nhiều điểm tương đồng, nhưng nền văn minh La Mã cũng có những khác biệt, khi La Mã đã biết sử dụng tiền đồng Sestertius, áp dụng chủ nghĩa duy lý kinh tế - sử dụng hệ thống kế toán, tín dụng và đầu tư ngân hàng. Bạn có biết, điều gì giúp phương Tây thống trị thế giới trong suốt 500 năm? Niall Ferguson cho rằng, văn minh phương Tây phát triển rực rỡ, trở nên giàu mạnh là dựa vào “6 ứng dụng sát thủ” gồm cạnh tranh, khoa học, pháp quyền, y học hiện đại, chủ nghĩa tiêu dùng và đạo lý nghề nghiệp. Trải dọc chiều dài lịch sử, văn minh phương Tây đóng vai trò trung tâm bên cạnh các nền văn minh khác, trở thành hình mẫu của đa số các quốc thế trên thế giới. Mong rằng, qua bài viết bạn có thể hiểu khái niệm văn minh, cũng như biết thêm những nét nổi bật của hai nền văn minh phương Đông lẫn văn minh phương Tây. Sưu tầm Nguồn ảnh Internet

so sánh nền văn minh phương đông và phương tây