tiếng chuông trấn vũ canh gà thọ xương
Đền Quan Thánh Hà Nội hay chính là ngôi đền được nhắc đến trong câu thơ nổi tiếng "Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương", ngày nay đã trở thành một trong những điểm tham quan Hà Nội thu hút hàng trăm lượt khách mỗi ngày.. Đền Quan Thánh có tên gọi khác là Đền Trấn Vũ, là một trong Thăng Long Tứ Trấn
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Đây là thủ pháp quen thuộc lấy xa tả gần, lấy động tả tĩnh. Xa xa văng vẳng tiếng chuông Trấn Vũ êm êm gây không khí rộn ràng náo động. Tiếng gà tàn canh Thọ Xương vọng tới.
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Một trong những đề tài quan trọng nhất của ca dao dân ca là quê hương đất nước. Trong những vần thơ dân dã mộc mạc mà đáng yêu ấy, người đọc đã bắt gặp hình ảnh của làng quê Việt Nam hiện lên thấp thoáng hữu tình.
Vay Tiền Nhanh Home. Vũ Quốc ThúcDuy Vũ sưu tầmMới đây tôi được đọc trên mạng lưới Internet một bài phiếm luận lý thú về hai câu thơ, thời tiền đô hộ Pháp. Đó là hai câu lục bátGió đưa cành trúc la đà,Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương ...Ngay từ hồi còn học ở Trường Thành Chung Nam Định 1934 - 1937, tôi đã được đọc hai câu thơ này, nhưng không phải là tiếng chuông Thiên Mụ mà là tiếng chuông Trấn Vũ. Theo tôi nhớ thì đây là hai câu đầu của một bài thơ tứ tuyệtGió đưa cành trúc la đà,Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương,Mịt mù bãi cát màn sương,Nhịp chày Yên Thái , bóng gương Tây Hồ..Thiên Mụ là tên một ngôi chùa danh tiếng ở ngoại thành Huế, còn Trấn Vũ là tên một ngôi chùa cũng rất nổi danh ở phía tây thành Thăng Long cũ tức Hà Nội. Vậy thì địa danh nào mới đáng coi là chính xác? Dĩ nhiên những ai sinh trưởng ở miền Trung, đặc biệt ở vùng Thừa Thiên, có xu hướng chọn địa danh Thiên Mụ. Trái lại những người gốc miền Bắc tin rằng địa danh Trấn Vũ mới đúng sự Thiên MụBản thân kẻ viết bài này không bao giờ có đầu óc địa phương phi lý như vậy trái lại chúng tôi rất trân quý đồng bào miền Trung. Tuy nhiên khi bàn về một đề tài liên can tới văn học sử chúng ta cần phải khách quan và tôn trọng tinh thần khoa học. Tôi tin rằng tiếng chuông trong câu thơ trên là chuông chùa Trấn Vũ vì những lý do sau Trấn VũTrước hết, địa danh Trấn Vũ không đưa ra một cách đơn lẻ mà đặt trong một tổng thể gồm 4 địa danh Trấn Vũ, Thọ Xương, Yên Thái, và Tây Hồ. Cả bốn địa danh này đều thuộc một khu vực chung là vùng tây cố đô Thăng Long, tức Hà Nội cũ. Chùa Trấn Vũ là một thắng cảnh nằm trên đường Cổ Ngư, một đường đê ngăn cách Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch. Thọ Xương là tên cũ của một huyện sát thành Thăng Long, trên bờ Hồ Tây, trong đó có những làng danh tiếng như làng Bưởi, làng Thụy Khê, làng Yên Thái, vân vân... Đặc biệt là làng Yên Thái chuyên nghề làm giấy bản trong làng suốt ngày vang tiếng chày giã bột giấy của nhân dân. Như vậy toàn bài thơ tứ tuyệt liên can tới một vùng nhất định là vùng ngoại thành phía Tây của cố đô Thăng Long. Nếu cho là tiếng chuông của chùa Thiên Mụ thì làm sao giải thích được sự hiện diện trong cùng câu thơ của huyện Thọ Xương, một nơi cách xa Huế hàng nghìn dặm? Hồ Tây Đọc bài thơ tứ tuyệt nói trên, ta có thể mường tượng là tác giả đã sáng tác ở đâu trong hoàn cảnh nào. Rõ ràng là lúc đó ông hay bà? ta đang ngụ ở một nơi trông ra Hồ Tây cách chùa Trấn Vũ cũng như làng Yên Thái không xa lắm nên mới nghe được tiếng chuông chùa cũng như tiếng chày giã bột giấy của dân làm giấy. Trước biến cố ngày 9 tháng 3 năm 1945 kẻ viết bài này từng cư ngụ ở đường Pépinière, một con đường đi từ đường Quan Thánh qua trường Bưởi tức Lycée du Protectorat sau đổi tên là trường Chu Văn An, tới Vườn Ươm Cây của Thành Phố Hà Nội vì thế con đường mới mang tên Pépinière rồi tới các làng Thụy Khê, Yên Thái. Đứng trên gác ngôi nhà tôi cư ngụ, nhìn qua cửa sổ có thể thấy Vườn Ươm Cây và đàng xa là mặt nước Hồ Tây. Như vậy việc tác giả bài thơ thuật rằng mình nhìn thấy mặt nước Hồ Tây sau bãi cát phủ sương mù ở bờ hồ đồng thời nghe thấy tiếng chuông chùa Trấn Vũ và tiếng chày giã bột giấy của dân làng Yên Thái, là việc có thực, không phải bịa đặt để thi vị hóa. Tác giả đã ngẫu hứng vào lúc nào? Theo tôi nghĩ lúc đó là bình minh vì bốn chữ canh gà Thọ Xương. Hồi theo cấp tiểu học, tôi từng thuộc lòng một bài thơ khác khởi đầu như sau Trống canh năm gà vừa gáy sáng,Bừng mắt dậy trời đã rạng đông!Ngắm phong cảnh đẹp vô cùngHỏi ai thêu dệt? Ấy Ông Thợ Trời!Tác giả không nói tới tiếng trống cầm canh của đồn Thọ Xương mà lại nói tiếng gà gáy. Tất nhiên gà gáy vào lúc bình minh chứ không gáy ban đêm có lẽ tiếng gà gáy đã vang lên cùng lúc với tiếng trống điểm canh năm chăng? Vì thế tác giả mới nảy ra ý nghĩ ngộ nghĩnh là con gà gáy điểm canh! Đây là một nghệ thuật chơi chữ táo bạo của các nhà thơ, nhà văn, có dụng ý đánh động sự hiếu kỳ của độc giả hay thính giả. Từ xưa đến nay đã ai thấy gà gáy điểm canh suốt đêm đâu! Chẳng trách có người đã hiểu lầm và dịch canh gà Thọ Xương là chicken soup of Thọ Xương bouillon de poulet de Thọ Xương!Tiếng chuông chùa cũng như tiếng chuông giáo đường thường có ảnh hưởng gây xúc động trong tâm hồn những người nhạy cảm. Thời Nhà Đường, một thi sĩ Trung Hoa, ngủ trên thuyền ở bến Cô Tô, giữa đêm bỗng nghe thấy hồi chuông từ chùa Hàn San vọng lại. Ông ta ngẫu hứng đã sáng tác một bài thơ trứ danh trong đó có hai câuCô Tô thành ngoại Hàn San TựDạ bán chung thanh náo khách thuyền!Thuyền ai đậu bến Cô TôNửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn SanHồi chuông mà tác giả của chúng ta đã nghe thấy không có tính cách bất thường như hồi chuông giữa đêm khuya của chùa Hàn San đó chỉ là hồi chuông được gióng lên mỗi buổi sáng. Tuy nhiên đối với những người đang có chuyện ưu tư hay phiền não nó nhắc nhở cho họ rằng mọi sự trên cõi đời trần tục này đều là vô thường!Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm!Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa!Tác giả của chúng ta có ở trong trạng thái tâm thần đó không? Ta không thể quyết đoán, chỉ biết chắc rằng ông hay bà ta đã chú tâm đến hồi chuông này. Có thế thôi!Dựa trên các chi tiết trong bài thơ, tôi giả thiết như sau tác giả vừa thức dậy, nhìn ra ngoài vườn thì thấy nhiều cành trúc trong bụi trúc trước nhà la đà trước gió, rồi nghe thấy tiếng chuông ban mai của chùa Trấn Vũ vang dội cùng lúc với tiếng gà gáy từ phía đồn canh của Huyện lỵ Thọ Xương. Tác giả thầm nghĩ "Thật chẳng khác chi con gà đã thay lính cầm canh báo cho ai nấy biết rằng canh năm tới rồi!". Tác giả nhìn về phía bãi cát ở bờ Hồ Tây, thì thấy sương mù mờ mịt. Mặc dù còn tranh tối tranh sáng như vậy, đã nghe thấy tiếng chày giã bột giấy của dân làng Yên Thái. Rồi qua màn sương, tác giả thấy mặt nước Hồ Tây lóng lánh như một tấm gương vĩ đại... Ngẫu hứng nhà thơ đã sáng tác bốn câu lục bát, còn được truyền tụng cho đến ngày làng Yên Thái ngày nayRõ ràng đó là một bài thơ tả cảnh, rất hiện thực. Tuyệt nhiên không phải là thơ tả tình vì không có một câu nào, một từ nào, nói lên tình cảm của chủ thể. Điều bất ngờ là do các biến chuyển của thời cuộc, bài thơ dần dần trở thành thơ tả tình, hơn thế nữa đã được dùng như một thông điệp để biểu lộ một thái độ chính Sự biến chuyển thứ nhất là việc nước Pháp chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa 1863 rồi đặt nền bảo hộ trên hai miền Bắc Kỳ và Trung Kỳ 1884. Lợi dụng tình trạng khiếp nhược của Triều đình Huế, nhà cầm quyền Pháp đã dần dần biến chế độ bảo hộ trên giấy tờ thành một chế độ trực trị trong thực tế. Những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định ở Bắc Kỳ hoàn toàn do các cai trị viên Pháp quản lý. Bộ mặt của những thành phố này thay đổi sâu xa. Trước cảnh tang thương ấy, nhiều sĩ phu cựu học cảm thấy nhớ tiếc thời đất nước còn tự chủ thời Hà Nội còn gọi là Thăng Long với những hình ảnh, những âm thanh được ghi trong bài thơ tứ tuyệt "Gió Đưa Cành Trúc La Đà"... Các cụ đã ngâm nga bài này để nói lên tâm trạng hoài cổ của mình và gián tiếp bầy tỏ nguyện vọng cần vương phục quốc. Nhưng sau sự thất bại của các nhà kháng chiến như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật... của các phong trào duy tân như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, sau khi thấy các vị vua có tinh thần đấu tranh như Hàm Nghi, Duy Tân, Thành Thái bị lưu đày ra hải ngoại... nhiều cụ đã chán nản, chua chát ghi nhận những sự thật ngang tai chướng mắt. Thí dụ Cụ Tú Trần Kế Xương trong mấy câuVợ lăm le ở vú!Con tấp tểnh đi bồi!Khách hỏi nhà Ông đếnNhà Ông đã bán rồi!b Sự biến chuyển thứ hai xẩy ra trong những năm đầu của thập kỷ 1930. Sau khi những âm mưu khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng và của Đảng Cộng Sản Đông Dương bị nhà cầm quyền thuộc địa thẳng tay đàn áp, Pháp áp dụng chính sách "lập lờ đánh lận con đen" với hy vọng ru ngủ nhân dân hai miền Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vua Bảo Đại được Pháp đưa về hồi loan chấp chính, Triều đình Huế được tân trang với sự bổ nhiệm một số nhân vật tân học vào Viện Cơ Mật nhưng cơ cấu chính trị và hành chính vẫn giữ nguyên vẹn với các định chế lỗi thời như định chế quân chủ thiên mệnh, định chế quan lại, định chế xã thôn tự trị... Nguyện vọng của các tổ chức đấu tranh và những người yêu nước là phải canh tân toàn diện chứ không phải là cải cách nửa vời, giả dối! Bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" bị coi như tượng trưng xu hướng thủ cựu, một xu hướng chỉ có lợi cho nhà cầm quyền thuộc địa. Sau khi vua Bảo Đại bổ nhiệm sáu vị thượng thư "tân học" để thay thế lục bộ cũ, tuần báo hài hước Phong Hóa đã đăng một bức hí họa trong đó sáu cụ "Thượng mới", quần trùng áo dài, đeo thẻ bài lủng lẳng, chen chúc nhau trên một con thuyền nhỏ bé lênh đênh trên sông Hương. Dưới bức họa ghi hai câu thơ lục bátGió đưa cành trúc la đàMột thuyền chật ních bài ngà thượng thư ..Bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" trước kia được coi là biểu tượng của thái độ chống thực dân Pháp thì nay đã biến thành biểu tượng của thái độ thủ cựu, hợp tác với nhà cầm quyền thuộc địa Pháp!c Sự biến chuyển thứ ba xẩy ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 với sự di cư của hơn một triệu người Việt tị nạn ra ngoại quốc. Nhiều người tị nạn đã mượn bài thơ "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" để nói lên nỗi lòng tưởng nhớ quê hương của mình. Tất nhiên những người gốc miền Trung đã sửa lại tiếng chuông Trấn Vũ thành tiếng chuông Thiên Cổ NgưBa mươi năm đã trôi qua. Số người tị nạn ở hải ngoại, cộng với con cháu họ và những người Việt không chịu hồi hương sau khi chế độ cộng sản Liên Xô tan rã, đã lên gần ba triệu. Khỏi cần chứng minh là nhiều thanh thiếu niên không biết gì về lịch sử cũng như văn chương Việt Nam. Nhiều người nói tiếng Việt còn không sõi. Do đó, khi họ đọc bài thơ trứ danh "Gió Đưa Cành Trúc La Đà" họ đã không hiểu những từ ngữ dùng trong bốn câu thơ. Nếu tra tự điển để tìm nghĩa từng chữ thì có thể sai lầm thảm hại như tác giả bài phiếm luận nói trên đăng trên internet đã chứng minh một cách rí rỏm. Chẳng hạn người ta có thể nghĩ rằng "la đà" là một đàn la và lạc đà rồi suy luận rằng cành trúc là cây roi tre của kẻ chăn đàn la và lạc đà này. Rồi Thiên Mụ thì được hiểu là Vợ của ông Trời, chuông đồng của chùa giống như chuông điện chỉ cần bấm là kêu leng keng, còn canh gà Thọ Xương có lẽ là canh xương gà trong các tiệm ăn Tầu! Tác giả bài phiếm luận đã dựa trên những sự lầm lẫn đó để làm bài thơ trào phúng sau đâyRoi tre vun vút vung raLũ lạc đà với lũ la chạy cuồng...Vợ Trời giáng một hồi chuôngGọi về ăn bát canh xương gà Tầu!Nếu dụng ý của tác giả bài phiếm luận là chế giễu các thanh thiếu niên không có đủ kiến thức về ngôn ngữ và văn chương Việt Nam, thì tôi nghĩ rằng cũng tội nghiệp cho họ quá! Họ đâu có được học hỏi về ngôn ngữ và văn chương Việt Nam như ông, cha của họ!Kẻ đáng trách chính là chúng ta, những người lớn tuổi thuộc thế hệ ông, cha của các thanh thiếu niên ấy. Chúng ta đã không làm hay không làm đủ bổn phận truyền đạt cho con cháu chúng ta những kiến thức về văn hóa dân tộc mà chúng ta đã hấp phiếm luận đăng trên Internet về bài thơ “Gió đưa cành trúc la đa” đã giúp chúng ta ý thức sâu sắc hiểm họa vong bản đang đe dọa con cháu chúng ta. Chúng ta không nên trì hoãn nữa cần phải làm một cố gắng quyết liệt để chấn chỉnh tình trạng này./.Vũ Quốc Thúc ParisGhi chú Đền Voi Phục thuộc làng Thụy Khuê cũ, nơi thờ Uy Linh Lang Đại Vương, một vị hoàng tử thời Lý đã có công lớn trong cuộc chiến chống quân Tống xâm lược năm đình làng Yên Thái, ngay ngã tư chợ Bưởi trên đường Thụy Khuê. Nơi đây vẫn thường diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của người dân của phường Bưởi, quận Tây Hồ. Làng Yên Thái ngày trước vốn nổi tiếng với nghề làm giấy dó, đã đi vào lòng người qua thơ ca, ca lại Trang Chính
"...Canh gà Thọ Xuơng" chuyện bịa như thật Có câu chuyện cười dân gian thời nay kể như sau Một sinh viên nước ngoài học tiếng Việt làm bài văn bình 2 câu thơ “Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”; vốn từ còn non, đọc chữ thông thường thì hiểu nhưng đến chữ khó thì phải tra từ điển. Gặp chữ “la đà”, tìm trong từ điển không có, chỉ có “la” là con vật lai giữa lừa và ngựa và “đà” nghĩa là cây gỗ lớn …! Băn khoăn lắm, lại tra thêm thì thấy có từ “lao” nghĩa là phóng đi thật mau, anh ta chắc mẩm “…dễ có khi đề bị đánh máy nhầm “lao” thành ra “la” chăng ?!” – vậy là Gió đưa cành trúc lao đà – ý nói gió mạnh lắm?! Đến câu 2, gặp chữ “Thiên Mụ” – tra sách thấy chữ “thiên” là trời; anh ta dịch được ngay “Thiên Mụ” là “Mụ Trời”… Chữ “canh gà” thì dễ hiểu, hẳn là món canh nấu thịt gà. Lại tra chữ thọ xương thì “thọ” là nhận lấy. Thọ xương hẳn là hóc xương! Sẵn có khiếu làm thơ, viết xong bài văn, chàng sinh viên thêm ngay vào cuối một bài thơ diễn nghĩa “Bão thổi bay ngọn trúc./ Bay cả đà ven đường,/ Mụ trời đánh một tiếng chuông./ Canh gà húp vội hóc xương mấy lần”. Chuyện trên là tưởng tượng nhưng lại có thật… bởi đã từng có kẻ là người Việt chính gốc mà đã hiểu “canh gà” ở đây là canh thịt gà. Trước 1975, một vị dân biểu miền Nam trong dịp công cán nước ngoài đã từng giải thích với khách ngoại quốc “canh gà Thọ Xương” trong câu thơ là “Thọ Xương’s chicken soup” xúp thịt gà của Thọ Xương. “CANH GÀ THỌ XƯƠNG” VỚI “CHUYỆN THẬT NHƯ BỊA” VÀ “CHUYỆN BỊA NHƯ THẬT” Cùng chuyện “canh gà” trên, mới đây đã xảy ra một chuyện thật như bịa Tháng 10 năm 2012, một cô giáo trung học tại Hà Nội – cô đã từng đỗ thạc sĩ với điểm số 10/10 – ra đề văn cho học sinh lớp 7 yêu cầu học sinh viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận về bài ca dao “Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.”. Học sinh làm bài, có em đã viết “Hà Nội còn đặc sắc với những món ăn nổi tiếng như “canh gà Thọ Xương”. Bài văn đã được cô giáo chấm và cho điểm 8+. Không rõ vì thiếu kiến thức hay chỉ vì chấm bài qua loa, cô không phát hiện lỗi của học sinh nhưng sự việc đã làm bùng lên làn sóng dư luận khá gay gắt buộc nhà trường phải tổ chức kiểm tra. Cô giáo sau khi giải trình vụ việc đã làm đơn xin nghỉ dạy… Vừa nghỉ việc về quê xong thì cô lại được bênh vực bởi một làn sóng mới nhiều người trên trang mạng đã tỏ thái độ thông cảm, tha thiết mong muốn cô trở lại trường… và đến đây lại bắt đầu một câu chuyện mới chuyện bịa như thật. Chuyện khởi đầu bởi bài “Canh gà Thọ Xương đúng là…canh gà?” đăng trên Blog Hiệu Minh1 của một độc giả có tên nick là Hocmon. Bài viết có căn cứ, có dẫn chứng rành mạch như sau “Nguyên bản cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh Thi Tập hiện đang lưu trữ tại thư Viện nghiên cứu Hán Nôm. Sách này có chép bài thơ mang tên “Tối ức Thọ Xương thang” Nhớ nhất canh Thọ Xương của Dương Khuê. Nguyên văn viết 裊裊搖風竹, 蒼蒼鎮武鐘,壽昌多故舊, 同買燉雞湯。煙鎖西湖水. 杵驚安泰鄉. 河城斯美景, 最耐客思量. “Niểu niểu dao phong trúc, thương thương Trấn Vũ chung, Thọ Xương đa cố cựu, đồng mãi đốn kê thang. Yên tỏa Tây Hồ thủy, chử kinh Yên Thái hương. Hà thành tư mỹ cảnh, tối nại khách tư lương.” Dịch nghĩa nôm na Gió lay trúc phất phơ, chuông Trấn Vũ xa thẳm, quán Thọ Xương nhiều ông bạn cũ, đều đến mua canh gà hầm. Khói sương vây bủa mặt nước hồ Tây, nhịp chày kinh động làng Yên Thái, cảnh đẹp này của Hà Thành, khiến khách nhớ nhung nhất. Phía dưới có một dòng chữ nhỏ, chú rằng “sau khi bài này làm ra, sĩ phu tranh nhau ngâm tụng. Bà Thọ chủ quán Thọ Xương mắng tiếng, đích thân đến nhà ta xin chữ, song lại cầu ta diễn ra quốc âm ngõ hầu hiểu được trọn nghĩa. Ta liền bỏ hai câu cuối mà diễn lại rằng “Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mùng khói tỏa ngàn sương Dịp chày Yên Thái mặt gương Tây hồ.” Thế là đã rõ nhé. Nếu tích trên có thật thì canh gà Thọ Xương đúng mà món canh gà, chẳng phải tiếng gà gáy sang canh như các nhà văn, nhà thơ đã tưởng. Phát hiện này mà đúng thì đó là sự kiện động trời trong văn học. Bác Hocmon có nhờ các anh chị nào có điều kiện ở Hà Nội, xin xác minh lại bài văn này với viện Hán Nôm dùm, có thật như vậy hay không ?. Sau khi đăng bài của “Hocmon”, HiệuMinh blog lại đăng thêm một đoạn lấy từ trang ... 59&page=11 “HiệuMinh Blog vừa tìm ra comment sau trên mạng cũng bàn về món canh gà khốn khổ Bác nào thử tìm trong thư viện Hán Nôm cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh 144 tr., 27 x 15. Ký hiệu Thư viện Viện Hán Nôm xem có bài này không. Làm ơn chụp cả trang đưa lên cho bà con xem. “Sáng nay có cậu bạn làm trong Viện Hán Nôm bảo, trong sách Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh 144 tr., 27 x 15. Ký hiệu Thư viện Viện Hán Nôm cũng chép bài thơ này. Xin lưu ý, Dương Khuê viết thơ bằng chữ Nôm, nỏ phải chữ Quốc ngữ. Nguyên văn viết chữ Canh là 羹 bát canh, món canh, không phải 更 canh khuya, canh chầy. Chứng tỏ canh gà là món ăn, chứ chả phải tiếng gà tiếng qué gì cả. Chắc hồi ấy các cụ đi tập thể dục từ sáng sớm, khi chùa Trấn Vũ đổ chuông, quán Thọ Xương mở hàng, các cụ rủ nhau vào ăn canh gà.”. Trang mạng phát tán. Dù ngôn ngữ của blog là lối nói thường dùng của lớp trẻ nhưng cũng khiến nhiều người kinh ngạc. Nhiều người xôn xao – kể cả các học giả, các nhà trí thức – bởi bấy lâu chữ “canh gà” vẫn được hiểu là tiếng gà báo sang canh… vậy mà nay hóa ra không phải – Canh gà lại là canh thịt gà ư ?! Nếu vậy thì việc cô giáo chấm bài văn, cho điểm 8 chưa hẳn là sai. Bài của Hocmon có nét đáng ngờ trước hết do lai lịch tác giả không rõ Hocmon chắc chắn không phải tên thật… và nếu cho là bút hiệu thì cũng không phải… vì xa lạ quá, chưa thấy xuất hiện ở trên tập san, báo chí nào, cũng chưa được trang mạng nào giới thiệu, ngôn ngữ lại có phần bỡn cợt… vậy mà nội dung lại có vẻ xác đáng bởi có kèm cả bài thơ chữ Hán, câu chữ khá chuẩn lại chỉ được đích danh cuốn Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh, nêu đúng cả số trang, khổ sách và cả kí hiệu trong thư viện Viện Hán Nôm nữa… khiến mọi người băn khoăn không ít. Các nhà nghiên cứu thấy có trách nhiệm trước vấn đề. Để làm sáng tỏ, trước hết Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Trịnh Khắc Mạnh đã tìm ở sách Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư tiên sinh ở Viện mà không thấy có bài thơ nào như trên. TS. Mạnh tìm thêm bài thơ chữ Nôm của Dương Khuê được nói đến thì thấy có bài Hà Nội tức cảnh trong sách Vân Trì Thi Thảo ký hiệu VHv. 2482, Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Bài thơ có 4 câu “Phất phơ ngọn trúc trăng tà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Tiếng chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”… Đáng lưu ý là chữ “canh” ở đây được viết là 更chứ không phải là 羹 bát canh, món canh như blog Hiệu Minh đã nêu. Chữ 更 trong văn cảnh của bài thơ phải hiểu là canh giờ2, “canh gà Thọ Xương” là tiếng gà gáy báo canh ở Thọ Xương. Một ý kiến khác của Giảng viên Nguyễn Hùng Vỹ tại Đại học KHXH&NV Hà Nội khi trả lời phỏng vấn về câu chuyện trên “Theo như nguồn dẫn sách Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư Tiên Sinh 144 tr., 27×15. Ký hiệu Thư viện Viện Hán Nôm thì không có bài thơ nào mang tên “Tối ức Thọ Xương thang” cả. Theo tôi, đây chỉ là một sản phẩm của “trí tưởng tượng” mà thôi, không có trong cuốn sách cổ nào hết. Đối với anh em trẻ thạo Hán Nôm thì từ cái tứ của Dương Khuê, bịa ra một bài chữ Hán na ná là không khó khăn gì …”3 Vậy là không có bài thơ nào gọi là Tối ức Thọ Xương Thang, cũng chẳng có bài thơ nôm nào của Dương Khuê lại viết chữ CANH là 羹. Đúng là chuyện bịa như thật và ai đó phải là người thông thuộc kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm thì mới biết rõ từng chi tiết sách Vân Đình Dương Khuê Thượng Thư tiên sinh được lưu trữ – đồng thời cũng phải là người giỏi Hán Nôm mới bịa ra được chứng cứ như thật. Quả là chuyện oái oăm trong làng Văn chương Việt. Nguyễn Cẩm Xuyên ————————— CHÚ THÍCH 1 ... a-canh-ga/ 2Ngày xưa chia thời gian “Đêm 5 canh, ngày 6 khắc”. Canh 1 19g – 21g, canh 2 21g – 23g, canh 3 23g – 1g, canh 4 1g – 3g, canh 5 3h – 5h. 3 ... 4Ảnh trích từ ... ngày 19/10/2012 Nguồn
Đề bài Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Bài văn mẫu Trong ca dao – dân ca, đề tài về cảnh đẹp đất nước chiếm một mảng khá lớn. Mỗi bài là một bức tranh phong cảnh tuyệt với, ẩn chứa lòng tự hào, tình cảm gắn bó thiết tha, sâu nặng với quê hương, xứ sở. Bài ca dao nói về cảnh đẹp Hồ Tây ở thủ đô Hà Nội được lưu truyền rộng rãi và đã trở thành lời ru quen thuộc Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Hồ Tây xưa kia có tên là hồ Lãng Bạc tức cái bến có sóng lớn, hay còn gọi là Dâm Đàm hồ sương mù vì thường vào lúc sáng sơm và chiều tồi, sương phủ dày trên mặt nước. Vì ở vị trí phía Tây kinh thành nên sau này nó được gọi là Hồ Tây. Xung quanh hồ là những địa danh nổi tiếng của đất Thăng Long như chùa Trấn Vũ, huyện lị Thọ Xương, làng Yên Thái vùng Bưởi chuyên nghề làm giấy vỏ cây dó được ngâm mềm, giã nhuyễn rồi cán mỏng thành giấy, phường Nghi Tàm, quê hương của Bà Huyện Thanh Quan , thi sĩ nổi tiếng của nước ta. Bài ca dao là bức tranh toàn cảnh Hồ Tây vào một buổi sáng tinh mơ. Mở đầu là nét chấm phá đơn xơ nhưng sinh động Gió đưa cành trúc la đà. Làn gió nhẹ sớm mai làm đung đưa cành trúc nặng trĩu sương đêm, tạo nên cái dáng mềm mại, nên thơ. Bức tranh duy nhất chỉ có nét thanh mảnh của cành trúc la đà trên cái nền mông lung mờ ảo của bầu trời và mặt hồ. Trong câu tiếp theo, các âm thanh hòa quyện vào nhau Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Tiếng chuông ngân nga, tiếng gà gáy rộn rã báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Tiếng chuông chùa vang vọng giữa thinh không gợi cảm giác bình yên. Tiếng gà gáy gợi lên cảm giác quen thuộc nơi thôn dã. Âm thanh của cõi đạo, cõi đời hòa quyện, làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của đất trời lúc đêm tàn, ngày rạng. Ai đã một lần đến Hồ Tây khi màn sương dày đặc còn bao phủ mặt hồ sẽ thấy được cái hay, cái đẹp của câu Mịt mù khói tỏa ngàn sương, để rồi thực sự sống trong tâm trạng lâng lâng thoát tục trước vẻ đẹp thần tiên ấy. Nếu ở ba câu thơ trên mới thấp thoáng hơi hướng cuộc sống thì đến câu thứ tư, hình ảnh cuộc sống lao động bỗng hiện ra rõ nét qua nhịp chày giã dó dồn dập của dân làng Yên Thái. Nhịp chày cũng là nhịp điệu hối hả của cuộc sống cần lao. Hình ảnh mặt gương Tây Hồ làm bừng sáng cả bài ca dao. Mặt trời lên xua tan sương mù, tỏa ánh nắng xuống mặt nước, Hồ Tây trở thành một gương mặt khổng lồ sáng long lanh, vô cùng đẹp đẽ! Như vậy là chỉ vẻn vẹn trong bốn câu thơ lục bát mà cảnh đẹp Hồ Tây đã được ngòi bút tài hoa của người xua vẽ thành bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ. Ẩn chứa sau từng câu, từng chữ là lòng tự hào, yêu mến tha thiết với quê hương của người dân đất Thăng Long ngàn năm văn vật. Trên khắp đất nước Việt Nam ta, ở đâu cũng có những cảnh đẹp làm xao xuyến hồn người. Xứ Lạng ở Đồng Đăng có phố Kì Lừa, Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh. Hà Nội với ba sáu phố phường, Hồ Tây, Hồ Gươm, gò Đống Đa, chùa Một Cột… Miền Trung với Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Xứ Huế với vẻ đẹp uy nghiêm, trầm mặc của cung điện, đền đài, lăng tẩm, của sông Hương với núi Ngự Bình. Những đêm trăng sáng, tiếng hò ngân dài trên sông nước Hương Giang Đò từ Đông Ba đò qua đập đá, Đò về Vĩ Dạ thẳng ngã ba Sềnh, Lờ đờ bóng ngả trăng chênh, Tiếng hò xa vọng nặng tình nước non. Người dân Nam Bộ tự hào với mảnh đất trù phú, mỡ màu bốn mùa hoa thơm trái ngọt, lúa chín vàng đồng Cần Thơ gạo trắng nước trong, Ai đi đến đó chẳng mong ngày về… Tất cả những câu ca ấy dù mộc mạc hồn nhiên hay trau chuốt, trữ tình đều nói lên cảnh đẹp gấm hoa của non sông đất nước và thể hiện tình yêu quê hương đậm đà, sâu nặng của nhân dân ta. Giống như bao bài ca dao khác, bài Cảnh đẹp Hồ Tây sẽ sống mãi trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Việt. Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người
tiếng chuông trấn vũ canh gà thọ xương